Lăng Tự Đức – Vẻ đẹp của kiến trúc thời Nhà Nguyễn

Lăng Tự Đức là nơi yên nghỉ của vua Tự Đức. Lăng Tự Đức là công trình được mệnh danh là một trong những công trình đẹp nhất thời nhà Nguyễn. Với kiến trúc mang đậm nét tinh tế, bao bọc bởi một không gian xanh mượt của núi rừng cây cỏ, lăng Tự Đức được xây dựng phù hợp với một tâm hồn thi sĩ lãng mạn, mộng mơ như vua Tự Đức nhưng không kém phần uyên bác, thâm thúy!

>>> Xem thêm: Địa điểm du lịch Huế

Đôi nét về lịch sử hình thành lăng Tự Đức

Lăng Tự Đức là nơi chôn cất vị hoàng đế thứ 4 của triều đại nhà Nguyễn tức vua Tự Đức (Nguyễn Phúc Hồng Nhậm), ông trị vì được 36 năm từ 1847-1883, là vị vua ở ngôi lâu nhất của nhà Nguyễn. Lúc mới xây dựng, lăng có tên là Vạn Niên Cơ (萬年基), sau cuộc Loạn Chày Vôi, vua Tự Đức bèn đổi tên thành Khiêm Cung (謙宮). Sau khi nhà vua băng hà, lăng được đổi tên thành Khiêm Lăng (謙陵). Năm 1864 Lăng được khởi công xây dựng với 5 vạn binh lính tham gia. Năm 1866 đổi tên Vạn Niên Cơ thành Khiêm Cung. Năm 1873 Khiêm Cung được hoàn thành.

Vị trí địa lí của lăng Tự Đức

Lăng Tự Đức tọa lạc ở xã Thủy Biểu, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Khách du lịch đi thăm quan lăng nên thuê taxi hoặc đi xe riêng để có thể đi hết 1 tour các lăng ở quanh khu vực này như lăng Minh Mạng, Lăng Khải Định.

Kiến trúc của Lăng Tự Đức

Mặt bằng kiến trúc lăng Tự Đức là vòng 12ha, gồm 50 công trình lớn nhỏ dàn trải. Quần thể lăng được chia thành hai phần chính: tẩm điện và lăng mộ. Lăng là nơi an táng thi hài vua, tẩm là hành cung nơi vua làm việc và giải trí. Hai khu vực này được bố trí song song nhau.

Điều đáng nói, thuật phong thủy được xem như yếu tố phải tuân thủ triệt để trong kiến trúc lăng tẩm xưa. Thế nên, lăng Tự Đức cũng hội tụ các yếu tố đại cát. Gồm có: minh đường huyền thủy, tiền án hậu chấm, sơn triều thủy tụ. Phía trước lăng có núi Giáng Khiêm làm tiền án. Phía sau là núi Dương Xuân làm hậu chẩm. Minh đường chính là hồ Lưu Khiêm.

Hồ Lưu Khiêm vốn là một con suối nhỏ chảy trong khu vực lăng, được đào rộng thành hồ. Hồ vừa mang ý nghĩa phong thủy thiêng liêng, vừa là nơi thả hoa sen tạo cảnh. Giữa hồ có đảo Tịnh Khiêm rợp bóng cây xanh. Trên đảo, vua cho trồng hoa và tạo những hang nhỏ để nuôi các loại thú hiếm. Đồng thời, bên bờ hồ Lưu Khiêm còn có Xung Khiêm Tạ và Dũ Khiêm Tạ. Đây là hai công trình nhà tạ được dựng trên mặt nước. Ba cây cầu bắt qua hồ là Tuần Khiêm, Tiễn Khiêm và Do Khiêm. Chúng dẫn ta đến đồi thông xanh bạt ngàn, gió vi vu.

Vẻ đẹp bồng lai của lăng Tự Đức đúng như áng thơ sau:

” Tứ bề núi phủ mây phong
Mảnh trăng thiên cổ, bóng tùng Vạn Niên” 

Bên cạnh vẻ đẹp từ kiến trúc, Lăng Tự Đức cũng mang cho mình những yếu tố phong thủy đặc trưng. Yếu tố được tôn trọng triệt để trong lăng Tự Đức là sự hài hòa của đường nét. Không có những con đường thẳng tắp, đầy góc cạnh như các kiến trúc khác. Con đường lát gạch Bát Tràng bắt đầu từ cửa Vụ Khiêm, đi qua trước Khiêm Cung Môn. Rồi uốn lượn quanh co ở phía trước lăng mộ. Con đường khuất vào những hàng cây sứ đại thụ ở gần lăng Hoàng hậu Lệ Thiên Anh.

HÌNH TƯỢNG ‘CÁ HÓA RỒNG’ TRÊN MÁNG XỐI Ở XUNG KHIÊM TẠ: Trong kiến trúc triều Nguyễn thường xuất hiện hình con cá đang há miệng làm máng xối. Nghệ nhân xưa đặt hai con cá trong bố cục đối xứng nhau qua góc mái chầu, bằng chất liệu nề vữa đắp nổi, khảm sành sứ bên ngoài. Cá mang những đặc điểm của đầu rồng cách điệu như hai mắt xoắn ốc lồi lên, miệng há to, mũi tròn nhẵn. Theo tư tưởng Nho giáo, cá gắn với biểu tượng của nguồn nước, mang sự may mắn, báo hiệu điềm lành và sự trường thọ.
Hình tượng chữ “ Thọ ” với bố cục hình tròn mang ý nghĩa phúc thọ, xuất hiện khắp nơi trong lăng Tự Đức

Khu tẩm điện

KHIÊM CUNG MÔN (CỔNG TAM QUAN): Công trình hai tầng này được xây dạng vọng lâu. Kiến trúc mái ngói của Khiêm Cung Môn mang dáng “mũi hài” (dạng mái hình thuyền), đặc trưng của nhà Nguyễn.

Qua khỏi cửa Vụ Khiêm và miếu thờ Sơn Thần là khu điện thờ. Nhìn từ phía tay trái là Chí Khiêm Đường, khu vực thờ các bà vợ vua. Tiếp đến là ba dãy tam cấp bằng đá nhà Thanh dẫn vào Khiêm Cung Môn. Hay còn gọi là cổng Tam Quan. Công trình hai tầng này được xây dạng vọng lâu, có thế đối đầu với hồ Lưu Khiêm ở đằng trước.

Tầng trên của Khiêm Cung Môn là nơi vua thường vọng cảnh đất trời mỗi lúc có thời gian nhàn rỗi. Hai bên tả hữu là Pháp Khiêm Vu và Lễ Khiêm Vu dành cho bá quan văn võ theo hầu. Chính giữa là điện Hòa Khiêm – nơi vua làm việc. Nay được sử dụng làm chỗ thờ bài vị của vua và hoàng hậu. Nằm sau điện Hòa Khiêm là điện Lương Khiêm, xưa là chỗ nghỉ ngơi của vua. Về sau trở thành chốn thờ tự bà Từ Dũ, mẹ vua Tự Đức.

Khiêm Cung được xem như hành cung thứ hai của vua Tự Đức, bởi sinh thời nhà vua ở đây còn nhiều hơn cả ở Đại Nội.

Minh Khiêm Đường

Mình Khiêm Đường được xem như là dấu ấn đặc biệt của khu tẩm điện. Công trình mang giá trị cao về nghệ thuật kiến trúc này nằm phía bên trái của điện Lương Khiêm. Không chỉ là nhà hát cổ nhất Việt Nam, Minh Khiêm Đường còn là nhà hát duy nhất được xây trong lăng tẩm. Đây cũng là chi tiết khiến lăng Tự Đức khác biệt so với các lăng vua nhà Nguyễn khác.

Hầu hết những vách tường hay cột trống đỡ đều được chạm khắc cầu kỳ với hoa văn nổi bật. Khi nhà hát được đóng kín, bên trong người ta sẽ thắp nến. Ánh nến từ bên dưới hắt lên sẽ tạo nên khung cảnh rất lung linh và huyền ảo.

Khu lăng mộ

Bái Đình (sân chầu) mở ra khung cảnh uy nghiêm bởi hai hàng tượng quan viên văn võ đứng oai vệ, hùng dũng.

Ra khỏi khu vực tẩm điện, đi theo con đường quanh co, khách vãn cảnh sẽ đến khu lăng mộ. Nguyên vật liệu xây dựng ở khu tẩm điện chủ yếu là gỗ. Còn khu mộ địa lại được xây bằng đá nhà Thanh.

Khi đặt chân vào Bái Đình (sân chầu), khung cảnh trở nên uy nghiêm một cách khác thường. Hai hàng tượng quan viên văn võ đứng oai vệ, hùng dũng. Cuối sân là Bi Đình (nhà bia). Trong đó có tấm bia bằng đá nặng 20 tấn khắc bài “Khiêm Cung Ký”, do chính vua soạn chiếu. Hai bên tấm bia là hai trụ biểu sừng sững, tượng trưng cho uy quyền và tài đức của vua. Phía trên trụ biểu được tạc hình hoa sen. Một biểu tượng Phật Giáo rất thịnh hành trong các công trình kiến trúc thời Nguyễn.

Phía sau Bi Đình là hồ Tiểu Khiêm. Hồ có hình bán nguyệt ,đựng nước mưa, mang hàm ý rửa tội cho linh hồn của bậc đế vương. Bửu Thành – nơi chôn cất thi hài vua Tự Đức, tọa lạc ngay sau hồ. Chính diện của Bửu Thành có cánh cổng hai tầng mái, được khảm sứ cầu kỳ. Mộ vua được xây bằng đá, có hình dáng như một ngôi nhà (thạch thất).

>>> Gợi ý khách sạn có chất lượng cao cho bạn thuận tiện nghỉ dưỡng khi đến Huế: https://dulichdaibang.com/booking-khach-san-resort-mien-trung/?diem-den=hue

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *